Giới thiệu về cổ phiếu:
1. Định nghĩa:
Khi một công ty gọi vốn, số vốn
cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua
cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi
là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu
chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công
ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Chung cư 28 tầng làng quốc tế Thăng Long
Thông thường hiện nay các công ty
cổ phần thường phát hành 02 dạng cổ phiếu: Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Các cổ đông sở hữu Chung cư xa la cổ phiếu thông
thường có quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty như: Được chia cổ tức theo
kết quả kinh doanh; Được quyền bỏ phiếu, bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị và
kiểm soát công ty; Được quyền mua thêm cổ phiếu mới trong các đợt phát hành
dành cho cổ đông hiện hữu; Được quyền tiếp cận thông tin về tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh của Công ty,
các báo cáo định kỳ; Và phải chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương
ứng với phần vốn góp của mình.
Các cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu
đãi cũng là hình thức đầu tư vốn cổ phần như cổ phiếu thông thường nhưng quyền
hạn và trách nhiệm hạn chế như: lợi tức cố định; không có quyền bầu cử, ứng
cử..v.v.
2. Tác dụng của việc phát hành Cổ
phiếu:
Đối với Công ty phát hành:
Việc phát hành cổ phiếu sẽ giúp
cho Công ty có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn
vốn huy động này không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm
hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm
rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công
ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng ...thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi
phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty
phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như
chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp.
Đối với nhà đầu tư cổ phiếu:
Các nhà đầu tư trên thị trường
sẵn sàng mua Cổ phiếu được công ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần
được phát hành dưới dạng chứng thư Cho thuê chung cư Indochina Plaza có giá và được xác định thông qua việc
chuyển dịch, mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư
và được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ
đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận
hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự
định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả
đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần
sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển của công
ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu
tỷ lệ thuận với giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị trường.
* Cổ phiếu phổ thông
Khi nói đến hàng hóa trên thị
trường chứng khoán, người ta thường nghĩ ngay đến cổ Phiếu phổ thông (common
stock). Thực tế tại nhiều nước trên thế giới, thị trường chứng khoán (the
securities market) đã rất quen thuộc đối với mọi người dân. Ví dụ, ở Mỹ, trung
bình cứ 4 người trên 25 tuổi thì có một người sở hữu (own) cổ phiếu phổ thông,
hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các quỹ tương hỗ (mutual funds) .
Vậy bản chất của cổ phiếu phổ
thông là gì?
Một cổ phiếu phổ thông đại diện
cho quyền sở hữu một phần công ty (represent a proportional ownership interest
in a corporatịon). Nếu một công ty có 100 cổ Bán chung cư Ct3 trung văn phiếu đang lưu hành (outstanding
stock) và bạn sở hữu một trong số đó thì có nghĩa là bạn sở hữu 1/100 công ty.
Nếu công ty có 1.000.000 cổ phiếu đang lưu hành và bạn nắm giữ 1.000 cổ phiếu
thì bạn sở hữu 1.000/1.000.000 hay 1/1.000 công ty. Thông thường, một công ty
có thể thay đổi số lượng cổ phiếu đang lưu hành bằng cách bán các cổ phiếu bổ
sung (selling additional shares) hay mua lại và huỷ bỏ một phần các cổ phiếu đã
phát hành trước đó (buying back and cancelling some of the shares previously
issued). Trong cả hai trường hợp trên, tỷ lệ sở hữu của các cổ đông cũ trong
công ty đều thay đổi.
Ví dụ, một công ty phát hành 100
cổ phiếu ra công chúng (issue 100 shares to the public) và bạn mua một trong số
này. Như vậy, bạn sở hữu 1/100 công ty. Sau đó, công ty phát hành thêm 100 cổ
phiếu nữa thì tỷ lệ sở hữu của bạn giảm xuống còn 1/200. Nói cách khác, tỷ lệ
sở hữu của bạn trong công ty đã bị pha loãng (diluted) do việc phát hành cổ
phiếu mới (the issuance of new shares). Bán chung cư 165 Thái Hà
Một ví dụ khác, giả sử một công
ty có 1.000.000 cổ phiếu đang lưu hành và bạn mua một cổ phiếu của công ty. Sau
đó, công ty mua lại và huỷ bỏ 250.000 cổ phiếu. Vậy, tỷ lệ sở hữu của bạn trong
công ty từ 1/1.000.000 tăng lên 1/750.000.
Lưu ý là cần phân biệt rõ cổ
phiếu đang lưu hành, cổ phiếu được phép phát hành (authorized stock) và cổ
phiếu ngân quỹ (treasury stock).
Số lượng cổ phiếu được phép pháp
hành, như tên của nó đã chỉ ra, là số lượng cổ phiếu tối đa mà công ty có thể
phát hành. Quy định này đặt ra nhằm tránh tình trạng pha loãng quá mức
(excessive dilution) tỷ lệ sở hữu trong công ty của các cổ đông hiện hữu
(current shareholders) . Trong thực tiễn, có nhiều công ty không phát hành hết
số lượng cổ phiếu mà nó được phép .
Cổ phiếu đang lưu hành là những
cổ phiếu mà công ty đã bán cho các nhà đầu tư và chưa mua lại để huỷ bỏ hay cầm
giữ. Số lượng cổ phiếu đang lưu hành được sử dụng để tính toán tỷ lệ sở hữu, tỷ
lệ nợ trên vốn (debt-to-equity ratio).
Vì nhiều lý do khác nhau, một
công ty có thể mua lại cổ phiếu của chính mình và nắm giữ như các nhà đầu tư
bình thường khác. Các cổ phiếu này được gọi là cổ phiếu ngân qũy và không được
tính vào cổ phiếu đang lưu hành.
Tại sao có nhiều người đầu tư vào
cổ phiếu? Khi mua cổ phiếu, các nhà đầu tư cùng hướng tới những mục tiêu giống
như những người bỏ tiền ra để mua hoặc khởi sự doanh nghiệp:
Thứ 1. Họ tìm kiếm cổ tức
(dividends), có nghĩa là họ hy vọng doanh nghiệp sẽ tạo ra lợi nhuận (generate
profits) để có thể phân phối (distribute) cho các chủ sở hữu;
Thứ 2. Họ tìm kiếm lãi vốn
(capital gains), có nghĩa là họ hy vọng doanh nghiệp sẽ tăng trưởng về giá trị
(grow in value) và do đó, họ có thể bán phần sở hữu của mình với mức giá cao
hơn mức giá mà họ đã mua;
Thứ 3. Họ tìm kiếm những lợi ích
về thuế (tax benefits) mà luật thuế (tax code) dành cho các chủ sở hữu doanh
nghiệp.
Đối với các nhà đầu tư khác nhau
thì tầm quan trọng của mỗi yếu tố trên cũng khác nhau bởi vì họ không có cùng
một mục đích đầu tư (investment objective). Ví dụ, những người về hưu vốn phải
sống dựa chủ yếu vào thu nhập từ các khoản đầu tư sẽ đề cao vai trò của cổ tức
trong khi một số người khác lại chú ý hơn đến khả năng thu lãi vốn.
* Cổ phiếu đại chúng
Một trong những yếu tố rất quan
trọng mà nhà đầu tư nên cân nhắc trước khi quyết định đầu tư là tính đại chúng
của cổ phiếu (CP). Vậy CP đại chúng là gì và ảnh hưởng của CP đại chúng đối đối
với việc đầu tư như thế nào?
CP đại chúng là gì?
Có thể hiểu CP đại chúng là CP có
số lượng công chúng tham gia đầu tư đông đảo và chiếm một tỷ lệ nắm giữ cao trong
tổng số CP phổ thông của tổ chức phát hành.
Tính đại chúng của CP một công ty
càng cao khi vốn cổ phần càng lớn, tỷ lệ vốn cổ phần phát hành ra bên ngoài cao
và có nhiều nhà đầu tư bên ngoài tham gia nắm giữ CP của công ty. Khi soạn thảo
Nghị định 48/NĐ-CP/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán (TTCK), các
nhà làm luật đã rất chú ý tới khía cạnh này.
Hai trong bảy điều kiện để một
công ty có thể phát hành chứng khoán ra công chúng là:
Mức vốn điều lệ tối phiếu là 10
tỷ đồng Việt Nam
Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ
chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành.
Trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ
tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
Trên thực tế, tính đại chúng của
CP còn phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
Tỷ lệ cổ phần phổ thông có quyền
chuyển nhượng tự do trên tổng số vốn cổ phần: Điều này làm cho CP có tính thanh
khoản cao.
Mức độ hạn chế về thời gian chuyển nhượng của
CP (đối với nhà đầu tư nước ngoài cũng như nhà đầu tư trong nước).
Tỷ lệ lưu ký CP: CP niêm yết muốn
mua bán phải được lưu ký lại Trung tâm giao dịch. Tỷ lệ lưu ký thấp tức là số
lượng CP có thể tiến hành giao dịch được sẽ không cao.
Tỷ lệ nắm giữ tối đa của một tổ
chức, cá nhân: Khi điều lệ công ty cho phép một tổ chức hay cá nhân nắm giữ một
tỷ lệ cao trong tổng số CP thì chỉ cần vài cổ đông lớn tham gia là không còn CP
để bán cho các cổ đông nhỏ khác. Thêm vào đó, CP này dễ bị thôn tính bởi một tổ
chức hay cá nhân nhằm phục vụ cho lợi ích riêng của họ.
Lĩnh vực hoạt động: CP của công
ty hoạt động trong các lĩnh vực đặc biệt mà nhà đầu tư ít có kiến thức hay hiểu
biết về lĩnh vực này thì sẽ không thu hút được nhiều nhà đầu tư bằng CP của
công ty hoạt động trong các lĩnh vực được nhiều người biết đến.
Tình hình hoạt động: Một công ty
hoạt động tốt, bền vững sẽ có khả năng thu hút nhiều công chúng đầu tư vào công
ty.
Mức độ công khai thông tin: Nhà
đầu tư sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi quyết định đầu tư vào một loại chứng khoán
mà họ có khả năng tìm kiếm được thông tin cần thiết về chứng khoán này một cách
dễ dàng và nhanh chóng.
Độ lớn của TTCK: Khi quy mô của
thị trường còn nhỏ, có ít hàng hoá... sẽ khó thu hút được nhiều công chúng đầu
tư vì nhà đầu tư khó mà mua được CP lúc cần mua và bán CP vào thời điểm thích
hợp...
Cổ phiếu đại chúng có ưu điểm gì?
Giá CP dao động sát hơn với giá
trị nội tại của chúng: Giá CP dao động tùy thuộc vào sự phán đoán của số đông
mà tâm lý số đông thường chính xác hơn tâm lý thiểu số.
Hạn chế được hiện tượng đầu cơ,
lũng đoạn thị trường: Do số lượng CP nhiều nên giá vốn hoá thị trường (giá trị
thị trường của công ty) lớn, nhà đầu cơ khó mà có đủ tiền để làm khuynh đảo giá
CP.
Hoạt động của công ty sẽ minh
bạch hơn: Hoạt động của công ty, các động tĩnh của các nhà quản lý sẽ được một
lượng hùng hậu các cổ đông để mắt tới nên có thể hạn chế được tiêu cực xảy ra.
Có tính thanh khoản cao: Do có số
lượng CP nhiều và có nhiều nhà đầu tư tham gia nên tại một thời điểm nào đó sẽ
có nhiều người bán và nhiều người mua...
Nói chung, tính đại chúng của CP
được quyết định bởi rất nhiều yếu tố. Nâng cao tính đại chúng của CP là một
trong những cách để doanh nghiệp quảng bá và bảo vệ CP của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét